PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài.
Chữ viết xuất hiện là bước ngoặt trong lịch sử văn minh của loài người. Chữ viết trở thành một công cụ vô cùng quan trọng trong việc hỡnh thành và phỏt triển văn hoá, văn minh của từng dân tộc. Nhờ có chữ viết mà thông tin của con người được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Chữ viết là một trong những công cụ giao tiếp thuận lợi và quan trọng nhất của con người. Chưa cần biết nội dung văn bản đó viết như thế nào nhưng nếu chữ viết rừ ràng, đẹp thường làm cho người đọc có cảm tỡnh ngay.
Con người không phải từ khi cắp sách đến trường đó biết viết chữ mà phải trải qua một quỏ trỡnh rốn luyện rất kiờn trỡ. Từ xa xưa đó cú tấm gương rèn luyện của ông Cao Bá Quát - một người nổi tiếng “văn hay chữ tốt”. Từ một người viết xấu đến mức không ai đọc được, nhưng nhờ có lũng kiờn trỡ luyện tập mà ụng trở thành một người có tài viết đủ các loại chữ, mà chữ nào cũng đẹp, cũng rừ ràng.
Học tập tấm gương của người xưa, nhiều năm nay, trong các trường tiểu học đó giấy lên phong trào “ Vở sạch - Chữ đẹp”. Ngay từ khi bắt đầu vào học lớp 1, học sinh đó được giáo viên rèn viết chữ. Như chúng ta đó biết, đối với học sinh tiểu học, việc rèn cho các em “Viết đúng, viết đẹp” là một vấn đề rất quan trọng. Bởi vỡ, chữ viết có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập của các em. Ngoài ra, việc rốn chữ viết sẽ rèn luyện cho học sinh những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, kiên trỡ, tớnh kỉ luật và úc thẩm mĩ.
Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh ? Đó là câu hỏi đặt ra cho mỗi người giáo viên tiểu học. Để làm được điều đó đũi hỏi người giáo viên phải có sự tỡm tũi, nghiờn cứu và khổ luyện sao cho chữ viết của cụ đúng là mẫu của trũ. Đồng thời phải tỡm ra cỏc biện phỏp hướng dẫn các em rèn chữ viết sao cho hiệu quả. Đối với học sinh lớp 2, cỏc em vừa mới từ lớp 1 lên, bước đầu mới làm quen với cỏch viết cỡ chữ nhỡ và cỡ chữ nhỏ, kĩ năng viết chữ của các em cũn nhiều hạn chế. Cỏc em chỉ mới viết ở mức độ tương đối, ghi nhớ các nét cơ bản cũn chưa chắc chắn, nột chữ cũn vụng về. Tốc độ viết cũn chậm, kĩ thuật viết và độ điêu luyện chưa cao. Khi cỏc em lờn học lớp 2 yêu cầu chữ viết ở mức độ cao hơn, có chiều sâu hơn. Học lớp 2, cỏc em một lần nữa được củng cố chữ viết và tăng tốc độ viết, độ nét, kĩ thuật. Qua đó, ta thấy chữ viết của học sinh lớp 2 là hết sức quan trọng.Vỡ vậy, giỏo viờn dạy lớp 2 phải tăng cường rèn luyện chữ viết cho học sinh để làm tiền đề cho các lớp trên. Đó chính là lí do tôi thực hiện đề tài: “Một số biện pháp rèn luyện chữ viết cho học sinh lớp 2”.
II.Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này, mục đích của tôi hướng tới là trên cơ sở đánh giá thực trạng và mức độ thành công của việc rèn chữ viết cho học sinh lớp 2; Xác định nguyên nhân thành công và từ đó nâng cao chất lượng chữ viết ở lớp 2 nói riêng, ở trường tiểu học nói chung.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lí luận làm cơ sở cho đề tài.
- Tỡm hiểu thực trạng chữ viết của học sinh lớp 2 trong lớp mỡnh phụ trỏch và trong trường mỡnh, nguyờn nhõn dẫn đến thực trạng đó. Từ đó, tỡm ra cỏc biện phỏp hữu hiệu để rèn chữ viết cho học sinh đạt hiệu quả cao.
- Tìm hiểu nhận thức, sự quan tâm của cha mẹ học sinh về việc rốn chữ viết của con mình.
IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp rèn luyện chữ viết cho học sinh lớp 2.
2. Phạm vi nghiờn cứu:
Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng phương pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 tại trường Tiểu học nơi tôi công tác.
V.Giải thuyết khoa học
Nếu trong quỏ trỡnh dạy học, giáo viên biết áp dụng những biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 như trong đề tài này một cách phù hợp thỡ chất lượng chữ viết của học sinh sẽ được nâng lên rõ rệt.
VI.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đọc sách, nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
- Phương pháp luyện tập, thực hành
VII. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Tôi nghiên cứu đề tài này vào năm học 2018 - 2019
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ KHOA HỌC
- Cơ sở lí luận:
Từ ngàn xưa, trong nền văn hóa của dân tộc chữ viết đã được ông cha ta coi trọng. Không phải ngẫu nhiên mà người ta có những nhận xét: “Văn như Siêu, chữ như Quát” mà đó chính là câu nói được truyền từ đời này qua đời khác để ca ngợi tài năng của con người và cũng là tấm gương cho những thế hệ sau học tập . Hay ta thường dùng thành ngữ : “Văn hay chữ tốt” để khen những học trò giỏi mà lại nhắc nhở những học trò yếu bằng câu: “Văn giai như chảo, chữ vuông như hòm”. Rõ ràng chữ viết cũng được coi trọng chẳng kém gì nội dung văn chương. Chữ viết đẹp, dễ xem sẽ gây được thiện cảm cho người đọc. Mặt khác chữ viết phần nào phản ánh ý thức rèn luyện, óc thẩm mỹ và tính nết con người.
Trong báo Tiền phong số 1760 ngày 18 tháng 01 năm 1960 thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết : “Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, tính kỷ luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình”.
Ngày nay, trong sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin dù đã có rất nhiều phương tiện in ấn hiện đại song chữ viết vẫn được coi trọng, dạy chữ cũng là để dạy người.
2. Cơ sở thực tiễn:
Việc rèn luyện chữ viết cho học sinh luôn được coi trọng ở bậc tiểu học. Vì mục tiêu của dạy học tiếng Việt trong trường tiểu học là rèn cho học sinh 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Thế nhưng hiệu quả của việc thực hiện các biện pháp nhằm rèn luyện chữ viết cho học sinh đạt được chưa cao. Vậy nên, cần phải quan tâm hơn nữa để tìm ra các biện pháp hữu hiệu, đồng thời thực hiện các biện pháp đó để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh nói riêng và chất lượng học tập của học sinh nói chung .
II. Thực trạng:
Năm học 2018-2019, tôi được phân công trực tiếp giảng dạy lớp 2G. Bước đầu kiểm tra sách vở của học sinh, tôi rất băn khoăn và lo lắng về tình trạng chữ viết của học sinh . Hầu hết, chữ viết của các em chưa đúng với quy định chung. Bài viết còn mắc nhiều lỗi chính tả. Có thể nói các em mới chỉ nghĩ đến việc viết cho có bài chứ không quan tâm đến vấn đề hình thức. Ngay từ đầu năm học, tôi đã gặp giáo viên chủ nhiệm lớp 1 năm trước để nắm tình hình chung đồng thời khảo sát lại kết quả tổng hợp về vở sạch chữ đẹp trong sổ chủ nhiệm của giáo viên năm trước. Quả thật kết quả vở sạch chữ đẹp của học sinh đạt được chưa cao.
Đầu năm học, tôi đã khảo sỏt chữ viết của lớp qua vở chớnh tả. Kết quả kiểm tra như sau :
Bảng 1:
Loại
Số HS
|
A
|
B
|
C
|
Số lượng
|
Tỉ lệ %
|
Số lượng
|
Tỉ lệ %
|
Số lượng
|
Tỉ lệ %
|
19
|
3
|
15.8
|
9
|
47.4
|
7
|
36.8
|
Kết quả bảng trờn cho thấy tỉ lệ chữ viết loại A cũn ớt , loại C cũn nhiều. Chữ viết của nhiều em cũn mắc lỗi chớnh tả.
Bảng 2:
Tổng số học sinh
|
Học sinh viết đúng cỡ
chữ
|
Học sinh viết đúng nét cơ bản
|
19
|
Số lượng
|
Tỉ lệ
|
Số lượng
|
Tỉ lệ
|
4
|
21,1
|
8
|
42,1
|
Kết quả ở bảng 2 cho thấy: Hầu hết chữ viết của học sinh không đồng đều, sai quy định về kích thước, sai cỏc hình nét cơ bản . Số em viết sai cỡ chữ và sai các nét cơ bản cũn nhiều.
III. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
Bàn ghế chưa phù hợp với từng học sinh. Vỡ trong một lớp học nhưng chiều cao của học sinh không bằng nhau, có những em cao lớn vượt trội so với lứa tuổi song có những em lại thấp bé hơn nhiều so với các bạn trong lớp.
Giáo viên chưa chú trọng đến chữ viết của mỡnh, xem nhẹ mụn tập viết, chớnh tả, lờn lớp cũn qua loa, thiếu sự nhiết tỡnh, ớt quan tõm đến chữ viết của học sinh dẫn đến học sinh thường viết và trỡnh bày bài vở một cỏch tựy tiện, cẩu thả. Một số giáo viên thường máy móc phân tích, hướng dẫn không đúng trọng tâm làm mất nhiều thời gian, học sinh thực hành được rất ít.
Trong việc rèn luyện kĩ năng chữ viết, do khi ở lớp Một các em không được hướng dẫn tỉ mỉ về chữ viết, tính hiếu động chỉ lo viết nhanh cho xong mà không chú ý đến viết đúng, viết chuẩn, thiếu kiờn trỡ, khú thực hiện đúng các động tác đũi hỏi sự khộo lộo, cẩn thận. Do vậy cỏc em thường viết sai các nét “ nối” từ con chữ này sang con chữ kia, khi đặt bút bắt đầu viết con chữ không đúng với vị trí của dũng kẻ, viết khụng đúng chiều rộng con chữ mà cũn viết chữ dón ra hoặc co lại, khụng tự ước lượng khoảng cách giữa chữ này với chữ kia, ghi dấu thanh, dấu phụ không đúng vị trí, chưa nắm chắc luật chớnh tả nờn cũn viết sai.
Hàng tuần, lớp 2 cú hai tiết luyện viết vào buổi chiều. Tôi thấy hầu như tất cả giáo viên vẫn chưa nắm được quy trỡnh dạy luyện viết nên giáo viên đó vụ hỡnh dung biến tiết Luyện viết buổi chiều thành tiết dạy Chính tả. Giáo viên thường cho học sinh đọc, tỡm hiểu từ khú viết, dễ nhầm lẫn cho học sinh viết bảng con. Sau đó đọc cho học sinh viết vào vở. Giáo viên chưa thực sự chú trọng xem trong bài viết của các em đó sai chỗ nào? Là các nét cơ bản hay các chữ hoa... để tiết sau phải rèn luyện lại. Vỡ những hạn chế đó nên hiệu quả của tiết Luyện viết buổi chiều ở các lớp chưa đạt kết quả cao. Học sinh học tập mang tớnh nhàm chỏn vỡ sự đồng điệu của môn này với môn khác.
IV. Biện pháp thực hiện:
Tôi thiết nghĩ, chữ viết không phải là năng khiếu bẫm sinh sẵn có của con người mà viết đẹp hay xấu phụ thuộc phần lớn vào quá trình rèn luyện. Quá trình đó lại phụ thuộc một phần vào bản thân người học và phụ thuộc phần nhiều vào người trực tiếp hướng dẫn chỉ đạo quá trình rèn luyện đó. Vậy, trong quỏ trỡnh rốn luyện chữ viết cho học sinh cần rốn luyện cho cỏc em những gỡ? Đó là chúng ta tiếp tục củng cố kĩ thuật viết các nét cơ bản và nâng cao tốc độ viết, độ nét của chữ...
Từ suy nghĩ đó, đồng thời qua thực tế dạy học sinh luyện viết chữ đẹp ở trường, tôi đã rút ra được một số giải pháp và tôi đã áp dụng thực tế vào việc rèn luyện chữ viết cho lớp tôi một cách khá thành công. Các giải pháp đó như sau:
1. Khơi gợi ở học sinh mong muốn viết chữ đẹp:
Tôi kể cho học sinh nghe những câu chuyện về gương viết chữ đẹp như Cao Bá Quát, những học sinh viết chữ đẹp của trường... Đồng thời cho các em xem những bài viết đẹp của học sinh khóa trước...Từ đó gợi lên trong học sinh lũng yờu thớch và mong muốn viết chữ đẹp.
2. Những quy định chung :
Cho học sinh học tập các quy định về mẫu chữ, kích cỡ chữ viết hoa và viết thường theo quy định của Bộ GD-ĐT ngay từ đầu năm.
- Yêu cầu học sinh có đầy đủ số vở để ghi các môn học theo quy định của nhà trường cho học sinh lớp 2.
- Thống nhất loại bút dùng để luyện viết( bút máy).
- Học sinh phải viết đồng loại mực .
- Học sinh phải thuộc và nhớ quy định về các nét viết, độ cao, khoảng cách giữa các con chữ trong tiếng, giữa các tiếng trong từ và luyện viết chữ theo quy định đó . Cụ thể :
a) Củng cố cho học sinh về độ cao các chữ trong bảng chữ mẫu viết thường:
- Chữ cái b, g, h, k, l, y được viết chiều cao 2,5 đơn vị.
- Chữ t được viết được viết độ cao 1,5 đơn vị.
- Các chữ cái d, đ, p, q được viết độ cao 2 đơn vị.
- Các chữ cái o, ô, a, ă, â, i, u, m, n, v, x cao 1 đơn vị.
- Các chữ cái ơ, ư , r, s cao 1,15 đơn vị.
- Các chữ cái viết hoa:a, ă, â, b, c, d, đ, e, ê, l, m, n, h, i, k,...có chiều cao 2,5 đơn vị, riêng chữ y và g cao 4 đơn vị.
- Khoảng cách giữa chữ cách chữ là một chữ o.
- Các chữ của con chữ trong một chữ phải nối liền nét.
Những nội dung này tụi củng cố cho cỏc em trong tất cả cỏc tiết Luyện viết, Chớnh tả, Tập viết.
b) Những yêu cầu cơ bản của việc tập viết:
Trước hết, muốn viết chữ đúng mẫu, đẹp giáo viên cần phải nắm được những yêu cầu cơ bản của môn tập viết:
- Kiến thức: Giáo viên phải có hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, cỡ chữ, hình dáng và tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách giữa các nét chữ và chữ cái, chữ ghi tiếng, cách viết các chữ viết thường, các chữ viết hoa, dấu thanh và chữ số.
- Kĩ năng: Viết đúng quy trình viết nét, viết chữ cái và liên kết chữ cái tạo ra chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch, viết thẳng hàng các chữ. Ngoài ra cần rèn các kĩ năng khác như: tư thế ngồi viết, cách cầm bút, đặt vở...
2. Biện pháp sữa lỗi chữ viết:
* Đối với học sinh viết sai độ cao các chữ cái:
Trong hệ thống chữ cái Tiếng Việt mỗi nhóm chữ có đặc điểm riêng và độ cao khác nhau vì vậy khi học sinh mắc lỗi về độ cao các con chữ giáo viên cần phải:
- Giúp học sinh nắm vững hình dáng, cấu tạo, quá trình viết chữ cái. Trước hết giáo viên cần cho học sinh nắm vững các đường kẻ trong vở luyện viết, toạ độ các nét chữ, chữ cái trong khung chữ mẫu.
Trong vở luyện viết (vở ô li) của các em đã có sẵn các đường kẻ, giáo viên hướng dẫn học sinh gọi tên các đường kẻ. Các chữ cái có độ cao một đơn vị được xác định từ dưới lên bằng đường kẻ li 1 và đường kẻ li 2;...đường kẻ li 5 các chữ cái có độ cao 2 đơn vị được xác định bằng đường kẻ li 1 đến đường kẻ li 3.
- Phân loại hệ thống chữ cái Tiếng Việt thành các nhóm, mỗi nhóm là các chữ cái có cùng độ cao để học sinh luyện viết (giáo viên gắn trong lớp hai bảng chữ cái mẫu chữ in hoa và chữ viết thường để học sinh quan sát và học tập).
Ví dụ: Các chữ cái b, g, h, k, l, y có chiều cao là 2,5 đơn vị tức là bằng hai lần rưỡi chiều cao ghi nguyên âm (a, o,u, n , m...).
Đối với viết số, giáo viên cũng chia các chữ số theo nhóm để học sinh luyện viết.
* Đối với học sinh viết sai các nét chữ:
Để sửa lỗi này cho học sinh trước hết giáo viên cần cho học sinh nắm chắc tên gọi của từng nét chữ rồi hướng dẫn kĩ năng viết các nét chữ:
- Nét sổ thẳng: Điểm đặt bút trên đường kẻ 3, đưa từ trên xuống,
- Nét cong: Điểm đặt bút ở đường kẻ li 3 hoặc phía dưới 1/3 vòng sang trái hoặc sang phải tạo nét cong kín hoặc cong trái, cong phải. Khi viết nét cong kín không nhấc bút, không đưa bút ngược chiều.
- Nét khuyết: Cách viết nét khuyết dựa vào đường kẻ li 2 làm chuẩn.
+ Nét khuyết trên: Điểm đặt bút từ đường kẻ li 2 giữa ô vuông nhỏ 1/2 đơn vị, đưa nét bút sang phải, lượn vòng lên trên chạm vào đường kẻ li 6 thì kéo thẳng xuống đường kẻ li 1, điểm dừng bút tại đường kẻ ngang li 1.
+ Nét khuyết dưới: Điểm đặt bút ở đường kẻ li 3 kẻ thẳng xuống gặp đường kẻ ngang dưới thì lượn cong sang trái, đưa tiếp nét bút sang phải, điểm dừng bút cao hơn đương kẻ li 1 một chút.
- Nét móc:
+ Nét móc ngược: Điểm đặt bút xuất phát từ đường kẻ li 3 kéo thẳng xuống gần đường kẻ li1 thì lượn cong nét bút chạm đường kẻ li 1 rồi đưa vòng lên dừng bút tại li 2 .
+ Nét móc xuôi: Điểm đặt bút thấp hơn đường kẻ li 3 trên 1/2 đơn vị, lượn cong tròn nét bút sang bên phải sau đó viết tiếp nét thẳng đến khi chạm vào đường kẻ li 1 thì dừng lại.
- Nét móc hai đầu: Nét này có phần nét móc xuôi phía trên rộng gấp đôi nét móc bình thường, phần nét móc phía dưới bằng độ rộng của nét móc ngược. Cách viét phối hợp giữa nét móc xuôi và nét móc ngược.
- Nét móc hai đầu có vòng ở giữa: Nét này có cấu tạo là một nét cong hở trái và một nét móc hai đầu biến dạng. Viết nét cong hở trái trước sau đó viết tiếp nét móc hai đầu. Sự chuyển tiếp giữa hai nét này phải đảm bảo yêu cầu: độ cong của nét móc hai đầu không quá lớn để kết hợp với nét cong hở tạo thành một vòng khép kín; điểm kết thúc nằm trên đường kẻ ngang dưới một chút và rộng gấp đôi độ rộng của nét móc bình thường.
- Nét thắt (nét vòng): Cấu tạo của nét thắt gồm hai nét cong biến thể (một nét cong hở trái và một nét cong hở phải). Điểm đặt bút thấp hơn đường kẻ ngang giữa một chút đưa nét bút sang phải uốn lượn nhẹ để tạo một nét cong khép kín. Điểm dừng tại đường kẻ li 2.
c) Đối với học sinh viết sai khoảng cách giữa các con chữ:
Trước hết giáo viên phải cho học sinh nắm vững khoảng cách giữa các con chữ trong từng tiếng, khoảng cách giữa các con chữ trong từng từ.
Giúp học sinh nắm vững cấu tạo các con chữ dựa vào các ô vuông và các chữ cái được chia thành các nhóm chữ. Dựa vào đặc điểm cơ bản của một số tiếng mà học sinh cần phải có khoảng cách giữa các con chữ hay dãn khoảng cách giữa các con chữ.
Ví dụ: nhanh
Trong tiếng “nhanh “ con chữ n phải giãn khoảng với con chữ h thì chữ mới đẹp.
d) Đối với học sinh viết sai vị trí dấu thanh:
Giáo viên hướng dẫn học sinh cách đánh dấu thanh ngay bên trên hoặc bên dưới âm chính của tiếng. Điều này không những giúp học sinh đánh dấu thanh đúng vị trí mà còn giúp các em viết đúng quy trình và nhanh hơn
Ví dụ: nhà trường
Sau khi viết các chữ nh, a, từ điểm dừng bút của chữ a lia bút lên trên đầu chữ a viết dấu huyền từ trên chéo sang phải không chạm đầu vào chữ cái a. Đối với tiếng “trường” sau khi viết các chữ cái tr,u, o, ng từ điểm dừng bút của chữ cái g lia bút lên trên đánh dấu móc của các con chữ ư,ơ cuối cùng là đánh dấu huyền trên con chữ ơ
3. Đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất:
- Giáo viên phải luôn quan tâm đến các điều kiện: Bàn ghế, ánh sáng trong lớp học, phấn viết và bút viết, vở viết của học sinh .
4. Biện pháp rèn luyện chữ viết:
4.1. Hướng dẫn học sinh làm quen với một số thuật ngữ trong quá trình rèn chữ viết.
- Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong một chữ cái. Điểm đặt bút có thể nằm ở đường kẻ ngang hoặc nằm trên đường kẻ ngang.
- Điểm dừng bút: Là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái, điểm dừng bút có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
- Viết liền mạch: Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét đứng trước tới điểm bắt đầu của nét tiếp theo.
- Kĩ thuật lia bút: Để đảm bảo tốc độ trong quá trình viết một chữ cái hay viết nối các chữ cái với nhau, nét bút được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết (đầu ngói bút, phấn) không chạm vào mặt phẳng viết (giấy, bảng) thao tác trên không đó gọi là “lia bút”.
- Hướng dẫn học sinh viết nét thanh nét đậm:
Muốn vậy trước tiên giáo viên cho học sinh viết chữ theo kiểu đứng nét rồi tăng dần đến luyện cách viết theo kiểu nghiêng nét thanh, nét đậm. Để làm được điều này giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh mua loại bút phù hợp, hướng dẫn học sinh cách cầm bút.
4. 2. Rèn tư thế ngồi viết và cách cầm bút.
- Tư thế ngồi viết: Khi viết cần phải ngồi ngay ngắn:
+ Lưng thẳng, đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 25 – 30 cm.
+ Ngồi không tì ngực vào cạnh bàn, hai chân để thoải mái.
+ Tay trái tì giữa vở, tay phải cầm bút viết bằng 3 ngón tay: ngói cái, ngón trỏ và ngón giữa.
+ Khi viết cầm bút bằng tay phải, cầm bằng 3 ngón tay: ngón trỏ, ngón giữa và ngón cái, khuỷu tay di chuyển bút mềm mại, thoải mái từ trái sang phải.
+ Các chữ viết liền mạch, không nhấc bút từng nét, từng chữ cái.
4.3. Lập thời gian biểu về luyện viết cho học sinh:
- Luyện viết vào vở ô li ở lớp vào chiều thứ 2 và thứ 6 hàng tuần.
- Ở nhà mỗi tuần luyện viết ít nhất 2 bài .
4.4.Luyện chữ viết trong giờ tập viết.
Mục tiêu chính của giờ tập viết là rèn luyện kĩ năng viết chữ đúng mẫu và đẹp. Nội dung Tập viết của học sinh lớp 2 chủ yếu là rèn viết chữ hoa. Từ đó, học sinh vận dụng vào viết từ ứng dụng và câu ứng dụng tương ứng với chữ chữ hoa vừa học. Đối với việc rèn luyện kĩ năng viết chữ hoa, để viết đúng và đẹp đòi hỏi học sinh phải nắm được hình dáng, đặc điểm từng con chữ, các nét viết, các thao tác viết từng chữ và nhóm chữ .
Tâm lý học sinh tiểu học thường thiếu tính kiên trì luyện tập, khó thực hiện các động tác đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ. Trong khi đó việc rèn luyện các thao tác tập viết chữ lại đòi hỏi sự kiên trì, tỉ mỉ và khéo léo cao.
Để khắc phục được nhược điểm này cho học sinh giáo viên cần nắm vững các thao tác kỹ thuật viết từng con chữ và thường xuyên rèn luyện để có kỹ năng viết chữ hoa thành thạo, đúng, đẹp để viết mẫu cho học sinh. Đồng thời hướng dẫn thật cụ thể về:
- Cấu tạo các âm trong vần, các vần trong tiếng và các tiếng trong câu.
- Các nét viết, độ cao, khoảng cách giữa các con chữ.
- Thao tác viết mẫu .
4.5. Luyện chữ viết trong giờ chính tả .
Việc viết chính tả rèn cho học sinh biết quy tắc và có thói quen viết chữ ghi tiếng Việt đúng với chuẩn. Chính tả cùng với tập viết, tập đọc giúp cho người học chiếm lĩnh được tiếng Việt văn hóa, là công cụ để giao tiếp, tư duy và học tập.Viết đúng chính tả giúp cho học sinh có điều kiện để sử dụng tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học tập các bộ môn văn hóa.Việc luyện viết chính tả liên tục kết hợp với ôn tập các quy tắc chính tả, học sinh sẽ có khả năng viết đúng các chữ ghi tiếng Việt, rèn luyện cho học sinh tính kỷ luật, tính cẩn thận, óc thẩm mĩ đồng thời bồi dưỡng lòng yêu quý tiếng Việt, chữ Việt, biểu thị tình cảm qua chữ viết.
Để thực hiện tốt việc luyện chữ trong giờ Chính tả trước hết giáo viên phải nắm rõ các lỗi chính tả cụ thể của từng học sinh. Qua kiểm tra tôi thấy học sinh thường phạm các lỗi chính tả sau:
+ Lẫn lộn giữa dấu hỏi và dấu ngã.
+ Nhầm lẫn giữa i, y: giữa các vần dễ lẫn như ưa với uơ, uya với ua.
+Viết sai các phụ âm đầu như c với k, ng với ngh, g với gh, d với gi.
- Để học sinh khắc phục được những lỗi trên trước hết giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát âm đúng các từ đó .
- Rút ra các tiếng, các từ khó mà học sinh dễ viết sai trong bài chính tả để phân tích cụ thể về cấu tạo chính tả và hướng dẫn học sinh viết đúng.
- Cho học sinh học thuộc luật ghi chính tả:
+Viết k vối các tiếng bắt đầu bằng i, e , ê.
+Viết c vối các tiếng bắt đầu bằng các âm còn lại trong bảng chư cái.
+Viết ngh với các tiếng bắt đầu bằng i, e , ê.
+Viết ng với các tiếng còn lại.
+Viết gh với các tiếng bắt đầu bằng i, e, ê.
+Viết g với các tiếng còn lại.
- Chọn bài chính tả theo khu vực: ở mỗi địa phương, học sinh do ảnh hưởng của phương ngôn nên thường mắc một số lỗi đặc trưng. Do đó trước khi dạy giáo viên cần phải tiến hành điều tra để nắm lỗi chính tả phổ biến của học sinh. Từ đó lựa chọn nội dung giảng dạy cho phù hợp .
- Một nhiệm vụ nữa trong giờ chính tả là việc đánh giá nhận xét kết quả bài viết của học sinh. Giáo viên phải thường xuyên chấm chữa bài, nhận xét sửa chữa ngay các lỗi chính tả cụ thể, tỉ mỉ của từng học sinh, đồng thời lưu ý cho các học sinh khác .
- Hướng dẫn cho các em tự đánh giá lẫn nhau để tìm ra lỗi sai của bạn và cùng nhau sửa lỗi.
Thụng qua việc vận dụng luyện viết trong giờ chớnh tả, chúng ta cũng không thể không nhớ đến những quy định cơ bản về tốc độ viết chữ của học sinh lớp 2 là:
+ Giữa học kì I: Khoảng 35 chữ /15 phút.
+ Cuối học kì I: Khoảng 40 chữ/15 phút.
+ Giữa học kì II: Khoảng 45 chữ/15 phút.
+ Cuối học kì II: Khoảng 50 chữ/15 phút.
Như vậy, việc luyện viết thụng qua tiết chính tả sẽ là một mắt xích quan trọng trong quá trình rèn luyện chữ viết cho học sinh nhằm đạt hiệu quả cao.
4.6. Rèn chữ viết trong tiết luyện viết buổi chiều:
*Một thực tế hiện nay ở các tiết Luyện viết (buổi chiều) hầu hết các giáo viên thường cho học sinh viết lại một đoạn văn, đoạn thơ đó học, điều này vô hình chung đó biến tiết Luyện viết ( buổi chiều) như tiết Chính tả ( buổi sáng). Thực tế này dẫn đến ở học sinh tâm lí nhàm chán và mục đích rèn luyện chữ viết cho học sinh đạt được cũng không cao. Vì thế, tụi đó suy nghĩ và tìm ra cách dạy tiết Luyện
viết phù hợp đó là:
- Trong quá trình dạy Luyện viết, tụi định hướng rừ tiết học này cần luyện nhóm nét cơ bản nào? Cần luyện chữ hoa nào? Dựa vào tiết học trước để định hướng cách chọn chữ hoa, chọn nét cơ bản dạy cho phù hợp với tiết học sau, đồng thời chỉnh sửa ngay những lỗi cơ bản mà tiết trước các em còn sai nhiều. Sau khi luyện tốt phần trên, tôi mới chọn một đoạn văn hoặc bài thơ tương đồng với nội dung luyện trên cho học sinh vận dụng để luyện viết vào vở. Sau một tiết luyện viết, tôi thu vở chấm – chữa bài cẩn thận để nhận ra bài viết của các em sai những lỗi gỡ? Từ đó, học sinh mới nhận ra những lỗi của mỡnh để sửa chữa và giáo viên cũng biết được mức tiến bộ của học sinh, định hướng cho tiết học sau.
Vớ dụ: Lớp học có nhiều em viết sai lỗi chữ C viết hoa và một số nét cơ bản như : nét khuyết trên, khuyết dưới...Tôi sẽ cho học sinh luyện viết nhóm nét cơ bản là các nét khuyết ( khuyết trên, khuyết dưới). Từ đó, học sinh vận dụng luyện viết cỏc tiếng cú chứa cỏc nột mà học sinh cũn viết sai. Cuối cựng, tụi cho học sinh vận dụng viết đoạn văn
Ngoài ra, tụi cũn giao thờm một số bài tập luyện viết nhằm thay đổi hỡnh thức bài tập, kớch thớch được hứng thú học tập của học sinh và cũng nhằm củng cố thêm kiến thức cho các phân môn khác của môn Tiếng Việt như Luyện từ và câu, Chính tả.....
4.7. Rèn chữ viết trong các giờ học khác:
Việc rèn luyện chữ viết không phải chỉ thực hiện trong phân môn Tập viết và Chính tả mà phải thực hiện ở các môn học khác như viết chữ số trong môn Toán, viết đúng hành văn, ngữ pháp, chính tả trong môn Tập làm văn.v.v...Rèn chữ cho các em không chỉ ngày một, ngày hai mà cả một quá trình rèn luyện lâu dài. Đối với học sinh lớp 2 việc rèn chữ lại càng khó vì các em vừa từ lớp 1 lên nên mức độ viết chỉ mang tính tương đối chưa vững chắc. Để rèn chữ viết cho các em trong những môn học khác có hiệu quả, tôi đã phân chia các chữ cần luyện viết theo từng nhóm chữ cú nột tương đồng để giúp các em có thể viết chữ đúng và đẹp trong các môn học khác.
Tôi đó tiến hành luyện cho cỏc em bằng cỏch: Cứ đầu mỗi tuần tôi ghi lên lề trái của bảng lớp một nhóm chữ có nét tương đồng. Trong tuần đó tôi yêu cầu các em chú trọng hơn về luyện viết nhóm chữ đó trong các bài học.Tùy vào độ khó của từng nhóm chữ mà cú thời gian luyện thớch hợp. Tôi phân chia luyện viết như sau:
4.7.1. Chữ viết thường:
* Nhóm 1: Các chữ có nét cong phối hợp với nét móc hoặc nét thẳng như: a, ă, â, d, đ, g. Tôi sẽ dạy nhóm chữ này vào 3 tuần cụ thể:
Tuần 1: Tôi ghi các chữ có nét cong: a, ă, â lên bên lề trái của bảng, hướng dẫn học sinh khi viết quan sát các chữ trên để vận dụng viết đúng các tiếng. Hàng ngày chấm bài cho học sinh, tôi luôn chú trong xem các em đã luyện viết tốt các chữ này chưa, có nhận xét chi tiết để các em chỉnh sửa kịp thời.
Tuần 2: Tôi ghi tiếp 3 chữ có nét cong như: d, đ, g sang bên trái lề bảng và tiếp tục hướng dẫn học sinh luyện viết tiếp những tiếng có chữ tiếp theo. Yêu cầu học sinh khi viết cần chú ý vào mẫu để viết được chuẩn xác. Khi chấm bài các môn học, tôi gạch chân những chữ viết chưa đúng nét, nhắc nhở để các em biết chính sửa vào tiết học sau.
Tuần 3 : Tôi củng cố lại tất cả các chữ thuộc nhóm chữ trên, kiểm tra các em viết xem đã viết đúng các nhóm trên chưa, đánh giá nhận xét cụ thể.
Tiến hành tương tự như thế đối với các nhóm khác.
* Nhóm 2: Các chữ có nét tương đồng cơ bản là nét cong như: o, ô, ơ, c, e, ê, x
Tuần 4: Ghi lên lề trái của bảng các chữ có nét tương đồng cơ bản là nét cong : o, ô, ơ .Yêu cầu học sinh quan sát kĩ mẫu để vận dung vào viết bài. Tôi theo dõi, kiểm tra từng em, có nhận xét kịp thời để học sinh chỉnh sửa.
Tuần 5: Ghi tiếp sang bên trái của bảng các chữ e, ê, c, x. Tương tự như thế, tôi kiểm tra bài làm của các em nhận xét cụ thể qua từng môn học. Yêu cầu học sinh luyện lại những chữ còn chưa đúng vào tuần tiếp theo.
Tuần 6: Tiếp tục hướng dẫn học sinh luyện viết các chữ của nhóm trên. Nhận xét chú trọng thêm phần chữ viết cho học sinh.
Tuần 7 : Tôi tiếp tục củng cố lại tất cả các chữ thuộc nhóm chữ trên, kiểm tra các em viết xem đã viết đúng các nhóm trên chưa, đánh giá nhận xét cụ thể.
* Nhóm 3: Nhóm chữ có nét cơ bản là nét móc như: i, u, ư, n, m, t, p.
Tuần 8: Tương tự trên, tôi cho học sinh luyện các chữ i, u, ư.
Tuần 9: Luyện tiếp chữ n, m, t, p
Tuần 10: Tiếp tục luyện lại các chữ thuộc nhóm chữ trên.
Sau mỗi tuần, tôi kiểm tra, nhận xét cụ thể cách viết của các em. Hướng cho các em nhận ra những ưu điểm, khắc phục những tồn tại đang còn vấp phải để tiếp tục luyện lại trong tuần sau.
Tuần 11: Tiếp tục ôn lại các chữ đã luyện trong tuần trước và đặc biệt là các chữ các em còn viết chưa chính xác ở nhóm chữ luyện trên.
* Nhóm 4: Các chữ có nét khuyết trên, khuyết dưới như: l, h, k, b, g, y
Tuần 12: Tương tự như các tuần, tôi ghi các chữ có nét khuyết trên: l, h, b, k vào lề trái của bảng để luyện.
Tuần 13: Yêu cầu học sinh tiếp tục luyện các chữ có nét khuyết dưới như: g, y
Tuần 14: Tiếp tục củng cố các chữ ở nhóm khuyết trên, khuyết dưới.
* Nhóm 5: Các chữ có nét tương đồng là nét cong( khó), nét thắt như: r, s, v, b.
Tuần 15: Tôi ghi các chữ r, s, v, b sang bên lề trái của bảng . Yêu cầu học sinh luyện.
Tuần 16 : Luyện lại các chữ có nét tương đồng trên.
Tuần 17, tuần 18 : Củng cố các chữ đã luyện trong nhóm 5
Từ tuần 19 trở đi tôi tiếp tục củng cố lại những lỗi mà các em chưa sửa được ....
4.7.2. Mẫu chữ hoa
Tôi cũng chia các nhóm chữ hoa để học sinh luyện tương tự như mẫu chữ thường cụ thể như sau:
* Nhóm 1: Các chữ : A,Ă, Â, M, N
Tuần 1: Tôi ghi mẫu chữ hoa A, Ă, Â sang lề trái của bảng. Yêu cầu học sinh luyện được các tiếng có chữ trên. Tôi đi đến từng học sinh quan sát để chỉnh sửa cho các em.
Tuần 2 : Luyện chữ M, N .Tôi cũng ghi vào bên trái của bảng và hướng dẫn học sinh luyện.
Tuần 3: Củng cố lại các chữ đã luyện trong nhóm 1.
Tiến hành tương tự như thế đối với các nhóm khác.
* Nhóm 2: Các chữ hoa: C, G, E, Ê, L, S
Tuần 4: Tương tự cho học sinh luyệnchữ hoa: C, G, L
Tuần 5: Luyện chữ hoa: S, E, Ê
Tuần 6: Tiếp tục luyện lại các chữ hoa trên.
Tuần 7: Củng cố lại các chữ hoa đã luyện ở nhóm 2.
* Nhóm 3: Chữ hoa B, R, P, D, Đ
Tuần 8: Luyện chữ hoa B, R, P
Tuần 9: Luyện chữ hoa: D, Đ
Tuần 10: Củng cố lại các chữ hoa đã luyện ở nhóm 3.
* Nhóm 4: Chữ hoa H, I, K, V, T
Tuần 11: Luyện chữ hoa: H, I, T
Tuần 12: Luyện chữ hoa K, V
Tuần 13: Luyện lại các chữ hoa đã luyện ở nhóm 4
* Nhóm 5: Chữ hoa U, Ư, Y
Tuần 14: Luyện chữ hoa U, Ư, Y
Tuần 15: Ôn các chữ hoa đã luyện ở nhóm 5
* Nhóm 6: Chữ hoa O, Ô, Ơ, , Q
Tuần 16: Luyện chữ hoa O, Ô, Ơ
Tuần 17: Luyện chữ hoa Q,
Tuần 18: Củng cố luyện lại nhóm 6.
Từ tuần 19 trở đi giáo viên tiếp tục luyện các chữ hoa học sinh viết chưa chính xác và rèn luyện thường xuyên các chữ hoa.
Với biện pháp rèn chữ viết như trên, tôi thấy học sinh đã nâng chữ viết lên một cách vượt bậc. Từ đó, Tôi rút ra một điều là luyện chữ viết cho học sinh cần phải có thời gian. Giáo viên phải chấm chữa bài thật tỉ mỉ, thường xuyên nhắc nhở và đôn đốc học sinh có ý thức rèn luyện thì lúc đó học sinh mới đạt được kết quả tốt: Trình bày đẹp , chữ viết rõ ràng, sạch đẹp.
4.8. Một số biện pháp khác :
a. Nhân rộng điển hình
Dựa vào đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học là hay bắt chước. Vì thế, ngay từ đầu năm học, tôi đã phân loại học sinh, đối với học sinh viết chữ tốt, tôi luôn chú trọng, nhân rộng. Những bài viết đẹp và những bộ hồ sơ đẹp của học sinh. Tôi trưng bày cho học sinh cả lớp xem để học tập. Ngoài ra, tôi còn phân cho những học sinh viết chữ xấu ngồi gần học sinh có chữ viết đẹp và hướng cho các em học tập lẫn nhau, nhắc nhở nhau cùng tiến bộ .
Những học sinh nào còn quá yếu tôi cho các em lên ngồi bàn trên để tiện việc theo dõi và hướng dẫn .
b. Giao việc ở nhà cho học sinh :
Nắm rõ tồn tại của từng học sinh: học sinh yếu và sai phần nào thì giáo viên giao việc cho học sinh để luyện tập về phần đó. Chẳng hạn : Học sinh sai cách viết nét thẳng thì giáo viên yêu cầu học sinh luyện viết các chữ có nét thẳng; học sinh viết sai nét cong thì giáo viên cho học sinh luyện viết các chữ có nét cong ...
Đối với những học sinh có khả năng viết chữ đẹp giáo viên có thể sưu tầm các bài chữ viết đẹp của những học sinh năm trước hoặc của học sinh lớp khác hay trong sách báo để giới thiệu với các em, làm mẫu cho các em luyện viết theo.
c. Hàng tháng kiểm tra, chấm điểm vở sạch chữ đẹp, xếp loại nhận xét rõ ràng, cụ thể từng học sinh, nêu rõ cần bổ sung điểm nào, sửa chữa vấn đề gì và yêu cầu học sinh khắc phục ngay.
Có tuyên dương khen thưởng hàng tháng để tạo hứng thú, tính tự giác và niềm say mê trong việc rèn luyện chữ viết.
d. Một trong những yếu tố góp phần quan trọng vào việc viết chữ đẹp đó là bút viết và vở viết. Vì vậy ngay từ đầu năm học giáo viên phải hướng dẫn học sinh mua loại vở do nhà trường đặt hàng, chọn loại bút máy phù hợp, bút viết nét mảnh, mực đều đặn .
Giáo viên yêu cầu học sinh viết đúng loại vở quy định của nhà trường, bút cùng một màu mực vừa thuận tiện trong việc rèn luyện chữ viết, vừa thuận lợi cho việc xây dựng hồ sơ vở sạch chữ đẹp của lớp.
e. Phối hợp với phụ huynh
Vào đầu năm học, trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, trao đổi về tỡnh hỡnh học tập của cỏc em, tụi mạnh dạn cho phụ huynh xem toàn bộ sỏch vở của con mỡnh và xem một số vở của một số học sinh viết đẹp, chuẩn trong lớp , trong trường. Tụi nờu thờm vai trũ của chữ viết trong cỏc mụn học khỏc, một số biện pháp rèn luyện viết chữ đẹp và các điều kiện cần và đủ để đảm bảo cho việc xây dựng phong trào “ Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”. Tất cả phụ huynh của lớp hưởng ứng và đồng tỡnh cao. Từ đó, tôi xây dựng kế hoạch phong trào này. Trước tiên, tôi hướng dẫn cho phụ huynh các nét cơ bản, kích cỡ, phô tô phát cho phụ huynh một số bài viết đẹp của lớp để phụ huynh tham khảo, về nhà phụ huynh cũng có thể kiểm tra được chữ viết của con ở nhà và nhắc nhở học sinh luyện viết tốt ở nhà. Ngoài ra, tụi cũn định hướng cho phụ huynh mua cho con mỡnh loại vở đặt của nhà trường, khi viết không giậm, mua loại bút máy phù hợp có nét thanh, nét đậm...
4.9. Chữ viết của giáo viên là một tấm gương cho học sinh noi theo.
Ngày ngày các em tiếp xúc với chữ viết của giáo viên thường xuyên trên bảng lớp. Bởi vậy chữ viết của giáo viên như một tấm gương soi, như một trực quan sinh động, một tài liệu sống để các em học tập. Vì thế chữ viết của giáo viên phải chuẩn ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi chi tiết cho dù đó chỉ là một nét vẽ, một chữ số hay một đường kẻ nhỏ trên bảng lớp cũng như ở lời nhận xét trong vở của học sinh .
Là một người giáo viên nói chung và một người giáo viên tiểu học nói riêng thì việc rèn chữ, luyện viết của các thầy cô giáo là một việc làm thường xuyên và cần thiết.
V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Sau một thời gian ngắn áp dụng những biện pháp nêu trên trong quá trình rèn luyện chữ viết cho học sinh lớp tôi phụ trách, tôi thấy đã có những chuyển biến rõ
rệt so với đầu năm như sau:
- Học sinh rất có ý thức trau dồi chữ viết.
- Chữ viết của học sinh tiến bộ nhìn thấy rõ rệt sau mỗi tuần học. Đến thời điểm cuối tháng 11 của năm học 2013-2014 hầu hết học sinh có chữ viết đúng và đẹp, trình bày sạch sẽ, gọn gàng, khoa học.
* Kết quả kiểm tra chất lượng chữ viết của học sinh lớp 2G trong tháng 9, 10, 11 năm 2013 như sau:
Xếp loại chữ
|
Tháng 9
|
Tháng 10
|
Tháng 11
|
Số lượng
|
Tỉ lệ
|
Số lượng
|
Tỉ lệ
|
Số lượng
|
Tỉ lệ
|
Loại A
|
3
|
15,8
|
9
|
47,4
|
12
|
63,2
|
Loại B
|
9
|
47,4
|
8
|
42,1
|
6
|
31,6
|
Loại C
|
7
|
36,8
|
2
|
10,5
|
1
|
5,2
|
Với kết quả đạt được như trên, tôi đã mạnh dạn trao đổi kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp mình với các giáo viên trong tổ, với chuyên môn của nhà trường và nhận được sự đồng tình ủng hộ cao.
Các giáo viên trong tổ 2 trường tôi đã áp dụng các biện pháp nêu trên vào việc rèn luyện chữ viết cho học sinh bước đầu có những kết quả đáng khích lệ.
Sau đây là kết quả “Vở sạch chữ đẹp” những tháng tiếp theo của lớp 2G đã đạt được qua quá trình vận dụng những biện pháp nêu trên .Thật vậy, kết quả rất khả quan và có thể còn cao hơn nữa, từ tháng 12 đến tháng 2 cụ thể như sau:
Xếp loại chữ
|
Tháng 12
|
Tháng 1
|
Tháng 2
|
Số lượng
|
%
|
Số lượng
|
%
|
Số lượng
|
%
|
Loại A
|
12
|
63,2%
|
15
|
78,9%
|
16
|
84,2%
|
Loại B
|
7
|
36,8%
|
4
|
21,1%
|
3
|
15,8%
|
Loại C
|
0
|
|
0
|
|
0
|
|
Phần thứ tư: KẾT LUẬN
Rèn chữ không những đơn thuần để chữ viết chuẩn, đúng, đẹp mà cũn là để rèn người nữa. Giáo viên giúp học sinh rèn chữ viết cũng chính là để rèn nhân cách cho cỏc em, giỳp cỏc em giữ gỡn sự trong sỏng của Tiếng Việt. Vì vậy, để việc rèn luyện chữ viết cho học sinh đạt hiệu quả cao trước hết người giáo viên phải có lòng nhiệt tình, sự tận tâm và tinh thần trách nhiệm. Đồng thời trong quá trình rèn chữ viết cho học sinh, giáo viên cần chú ý những vấn đề sau:
- Rèn luyện chữ viết cho học sinh là một quá trình lâu dài, không nên nóng vội. Cần tôn trọng cá tính của học sinh, đi từ cái dễ đến cái khó, từ cái chưa đạt đến cái đạt được, không đốt cháy giai đoạn dễ gây cho học sinh tính cẩu thả sau này.
- Trong quá trình rèn luyện chữ viết phải quan tâm tới việc bảo vệ sức khỏe cho học sinh, gây hứng thú, tránh ép buộc làm cho học sinh nhàm chán.
- Tìm hiểu ngôn ngữ địa phương là một việc làm cần thiết nhằm rút ra những lỗi phương ngôn phổ biến để điều chỉnh cho học sinh viết đúng chính tả.
- Việc rèn luyện chữ viết cần phải được thực hiện ở tất cả các môn học.
- Kết hợp với phụ huynh học sinh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc rèn luyện chữ viết khi học sinh học ở nhà.
- Chữ viết của giáo viên phải đẹp, đúng mẫu, đúng chuẩn là một tấm gương để học sinh noi theo.
- Thường xuyên rèn luyện để học sinh luôn có ý thức đẩy mạnh nâng cao và duy trì phong trào giữ vở sạch, viết chữ đẹp.
PHẦN THỨ TƯ: KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
* Đối với Phòng và Sở GD-ĐT:
- Tiếp tục duy trì cuộc thi “ Văn hay-Chữ đẹp” hàng năm để tạo phong trào thi đua rèn chữ trong các nhà trường.
* Đối với các nhà trường:
- Đẩy mạnh phong trào giữ “ Vở sạch chữ đẹp”. Kết thúc mỗi năm học, các trường nên giữ lại những bộ vở chữ viết đẹp để lưu lại phũng Truyền thống của nhà trường làm chuẩn để kích thích phong trào “ Vở sạch chữ đẹp” cho năm học tiếp theo.
- Tăng cường tổ chức các hình thức ngoại khóa thi viết đẹp, viết nhanh để động viên, khuyến khích học sinh luyện viết.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã áp dụng khá thành công trong việc rèn luyện chữ viết cho học sinh. Tuy nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý bổ sung của quý thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp và bạn đọc để nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc rèn luyện chữ viết cho học sinh lớp 2 nói riêng và học sinh tiểu học nói chung, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo con người phát triển toàn diện.
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2019